Tên lửa chống tăng lừng danh MILAN có thể xoá sổ các loại xe tăng hiện đại được tích hợp trên Marder
Nằm phía đuôi xe là khoang chở lính đủ cho 6 người với hai hàng ghế hướng ra ngoài (giống kiểu thiết kế ghế cho lính bộ binh trên BMP-1.
Vốn đều có cửa nắp ra vào riêng. Nhưng chỉ có phiên bản Marder 1A1 và 1A2 có khả năng này. Nhà sản xuất đã lắp Tên lửa chống tăng có điều khiển (ATGM) MILAN lên tháp pháo nhằm tăng khả năng tiến công các công cụ hạng nặng.
2) Marder có thể lội nước sâu 1. Lắp thiết bị nhìn đêm mới. 9 m Động cơ: MTU MB 833 Ea-500 600 mã lực Tầm hoạt động: 500km Tốc độ tối đa: 65km/h khí giới: - 1 x Pháo 20mm - 1 x MG3 7. Ngồi sau lái xe là một lính bộ binh.
Khi tất cả các yêu cầu cho loại xe mới được chính thức đưa ra. Thường ngày một xe sẽ mang 6 quả hoả tiễn MILAN
Với trưởng xe bên phải và pháo thủ bên trái. Marder dùng động cơ dầu diesel 6-xylanh MTU MB Ea-500 công suất 600 mã lực. Bên cạnh đó là súng liên thanh MG3 7. 88 x 3. Trong đó bên cạnh việc sở hữu các tính năng độc đáo như súng liên thanh điểu khiển từ xa được khai hỏa từ xạ thủ ngồi trong xe thì Marder vẫn giữ thiết kế không phức tạp và khá cơ bản với cửa ra vào phía sau xe và lính bộ binh có thể bắn qua khe châu mai trên xe.
Nhưng điều này đã bị loại bỏ ở phiên bản 1A3. Cửa ra vào ở đuôi xe cho kíp bộ binh. Trở nên một trong những xe thiết giáp nặng nhất thế giới (và có lẽ cũng là đắt tạm thời điểm này). 62mm cho MG3. Mỗi bên thành xe có 2 lỗ châu mai để họ khai hỏa khí giới của mình. Hoả tiễn chống tăng MILAN trên tháp pháo bên cạnh pháo 20mm.
Marder hiện là xe thiết giáp chủ lực của Quân đội Đức
Hệ phuộc nhún là dạng thanh xoắn cộng với thiết bị giảm xóc thủy lực lắp ở hai bánh đầu và hai bánh cuối dải xích. Indonesia cũng mua thêm 42 xe thiết giáp Marder 1A3. 5m và lắp phụ kiện để lặn nước sâu 2. Cơ cấu lái bao gồm 6 bánh cao su chịu lực đi với một bánh dẫn động ở đầu dải xích. Những yêu cầu chính cần phải có là mang theo được 12 lính bộ binh.
Lính bộ binh cơ giới Đức tác chiến với xe Marder. 5m. Sau đó vào năm 1967. Indonesia đã nhanh chân lấy trước 2 chiếc Marder 1A3 để duyệt binh trong lô 42 chiếc đặt mua. Marder trong Quân đội Đức thời chiến tranh Lạnh. Bên cạnh đó là sáu ống phóng đạn khói nghi binh cỡ 76mm. Ắt số xe này đều trong kho Quân đội Đức
Chiếc xe đợt đầu này là sự cải tiến của loại xe thiết giáp Schützenpanzer Lang HS. Vì tăng cường giáp bảo vệ khiến xe nặng hơn nên tốc độ tối đa chỉ còn 65km/h. Marder có cách sắp đặt các vị trí giống với các loại IFV (xe chống chọi bộ binh) cùng thời như tài xế ngồi phía trước bên trái còn bên phải anh ta là vị trí khoang động cơ.
Có khả năng bảo vệ quân sĩ khỏi vũ khí hủy diệt lớn. Tuy vậy chỉ có số lượng ít phiên bản này được sản xuất. Khi cần kính nhìn đêm có thể lắp thay cho kính quang học.
Những phiên bản về sau còn chống được cả đạn 30mm như một sự đối đầu với pháo 30mm của xe thiết giáp BMP-2 Liên Xô. Sức mạnh hỏa lực của Marder Hỏa lực chính của Marder là pháo tự động nòng 20mm Rheinmetall MK20 Rh202 đặt trên tháp pháo 2 người có thể bắn đạn xuyên giáp và đạn nổ. Khả năng phòng ngự và cơ động trên chiến trường Về thiết kế.
Marder sử dụng hệ bánh xích Diehl có gắn các “guốc” cao su. Phiên bản 1A5 mới nhất tích hợp khả năng chống mìn tân tiến. Phiên bản 1A4 khác 1A3 chỉ ở chỗ dùng máy truyền tin mã hóa đương đại SEM 93
Pháo 20mm đáng tin tức. Thân xe Marder được bọc giáp thép giúp chống được các loại đạn hạng nhẹ và mảnh pháo trong khi đầu xe chống được cả đạn cỡ 20mm xuyên giáp. Còn từ phiên bản Marder 1A2 trở đi. 136 chiếc được sản xuất.
38 x 1. Ở phiên bản Marder đầu và bản 1A1 còn có một khẩu súng liên thanh MG3 thứ hai đặt phía sau đặt trên giá súng được điều khiển từ xa. 62mm - hoả tiễn chống tăng MILAN Quang Minh. Ở phiên bản Marder đời đầu vị trí này có cửa nắp ra vào và kính nhìn toàn cảnh riêng.
Trong đó 2 chiếc Marder 1A3 đã được giao cho Indonesia để nước này duyệt binh (!) tham số kỹ thuật: Năm nhập biên chế: 1970 Kíp lái: 3 người + 6 lính đi theo Khối lượng: 35 tấn Dài x Rộng x Cao(m): 6. Lính bộ binh phải có khả năng khai hỏa từ trong xe. Đổi thay cửa nắp ra vào. Việc lắp thêm giáp
Công việc phát triển rút cục được giao cho nhóm Rheinstahl. Hệ thống phuộc nhún cũng khiến khối lượng của Marder 1A3 lên tới 35 tấn.
Cơ số đạn mang theo là 1. Quá trình phát triển Marder bắt đầu từ năm 1960 với những chiếc xe trước nhất được bàn giao cho Quân đội Đức năm 1971. Cùng với hiệp đồng mua 103 xe tăng Leopard 2.
Mỗi xe Marder có giá chừng 2 triệu USD). Marder 1A3 là phiên bản được sử dụng nhiều nhất và nó đang ở trong biên chế Quân đội Đức. Tài xế có 3 kính tiềm vọng để quan sát bên ngày còn ban đêm kính giữa sẽ được thay thế bởi kính nhìn đêm chuyên dụng.
Pháo có thể xoay 360° và góc nâng hạ nòng là từ -17° đến 65°. 62mm gắn đồng trục với pháo 20mm. Vì sang mẫu Marder 1A3 đã bỏ đi khe bắn vì thân xe đã lắp thêm giáp phụ và mang theo các thùng chứa đồ bên ngoài. Kết hợp với hộp số 4 cấp Renk HSWL 194 có 4 số tiến và 2 số lùi
Marder là loại xe thiết giáp xung kích do Đức chế tạo và được sử dụng bởi quân đội nước này với nhiệm vụ làm nòng cốt trong các đơn vị Panzergrenadiere (bộ binh cơ giới) từ những năm 1970 đến nay. Đợt bàn giao Marder trước hết vào năm 1971 đến năm 1975 đã có 2. Hàng sẽ được giao chi Indonesia từ nằm 2014-2016 với tổng trị giá hợp đồng là 216 triệu Euro (khoảng 295 triệu USD.
Có thể nói những đề nghị dành cho chiếc xe thiết giáp mới này học theo loại xe thiết giáp xung kích huyền thoại BMP-1 của Liên Xô ra mắt năm 1968. Ở giữa xe là tháp pháo 2 người. 000 viên đạn 7. Hỏa lực tiếp theo của Marder chính là vũ khí của binh sĩ bên trong xe. Được phát triển với vai trò là một phần trong chương trình xe thiết giáp mới của Đức.
30. Phiên bản Marder đầu có thể chạy với tốc độ lên tới 75km/h nhưng những phiên bản về sau. Hệ thống kính ngắm quang học chính là loại PERI-Z11 với khả năng phóng to 2X hoặc 6X. 250 viên 20mm và 5.
Lúc đầu hợp đồng phát triển được giao cho hai công ty là Rheinstahl và công ty MOWAG của Thụy Sĩ. Dự trữ dầu mang theo là 652 lít bảo đảm cho Marder di chuyển trên quãng đường 500km.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét